Đại đoàn kết toàn dân tộc là di sản vô giá, truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Lịch sử đã chứng minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều cố kết thành sức mạnh vô địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Ngày nay, đoàn kết để đất nước ta thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những quan điểm cho chủ trương và giải pháp chủ yếu để xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đoàn kết là cội nguồn sức mạnh và truyền thống quý báu, giúp dân tộc Việt Nam vượt qua bao thách thức, biến cố và viết nên những trang sử chói lọi... Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định “đoàn kết” là giá trị cốt lõi và “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, là động lực to lớn tạo nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta.

Đoàn kết đã tạo nên sức mạnh để chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, đoàn kết để chúng ta cùng nhau thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm quý báu, vấn đề chiến lược, có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra các chủ trương và giải pháp chủ yếu để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi giai cấp, tầng lớp xã hội phát triển vững mạnh. Cùng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng được Đảng ta xác định là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, đồng thuận giữa Nhà nước và Nhân dân, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thực tế trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo, bảo đảm lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách xã hội, thể hiện sự ưu việt của chế độ xã hội nước ta. Thực hiện tốt chính sách xã hội không chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, mà còn là một trong những yếu tố quyết định sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Khi “lòng Dân” và “ý Đảng” hội tụ thì đó thực sự là động lực và sức mạnh để cả dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách và tiếp tục kiến tạo các kỳ tích mới trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Ðảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau 38 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm (2011 - 2020), công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đời sống nhân dân được nâng cao. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn.

Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ tiên tiến. Các ngành dịch vụ được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh được nâng cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao.

Để đạt được mục tiêu đó, ngoài những phương hướng giải pháp đưa ra là đổi mới tư duy nhận thức, hành động quyết liệt; xây dựng thể chế, chính sách phù hợp; nâng cao năng lực của các cấp, các ngành… cần đoàn kết sức mạnh của toàn dân tộc trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chính sự đoàn kết sức mạnh này giúp ta vượt qua những khó khăn thách thức, hoàn thành mục tiêu đặt ra.

Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, tệ tham nhũng, lãng phí vẫn là vấn đề đặt ra một cách cấp bách cần khắc phục, ảnh hưởng đến niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách với những thủ đoạn mới để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng với Nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo…

Các tổ chức phản động tìm cách xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có thể nói, việc tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là nền tảng tất yếu trong việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Điều kiện kinh tế - xã hội của người dân còn nhiều khó khăn, chính sách xã hội còn tồn đọng những hạn chế, bất cập. Điều kiện tự nhiên, sự biến đổi khí hậu đã tác động tiêu cực đến hoạt động lao động sản xuất, sự chênh lệch về mức sống, khoảng cách giàu - nghèo cũng ảnh hưởng đến việc tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Thêm vào đó, dịch bệnh Covid-19 đã tác động tiêu cực đến các mặt của đời sống xã hội, gây ra những vất vả khó khăn, gánh nặng “cơm áo gạo tiền” đối với cuộc sống của người dân.

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã nhìn nhận một số hạn chế trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc có lúc, có nơi chưa được quan tâm. Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt.

Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều”1. Thực tế này đặt ra yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để tạo động lực vững chắc cho sự phát triển xã hội.

Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định cần tiếp tục: “Ban hành và thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân…”2.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định rõ mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”3.

Để đạt được mục tiêu đó, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải có sự phấn đấu không ngừng, sáng tạo, hết sức quyết liệt và gian khổ. Trong quá trình đó có nhiều thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn - có những khó khăn mới xuất hiện trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; những khó khăn, trở ngại do những yếu kém hiện nay và tồn tích từ trước; những khó khăn trong nước và những tác động bất lợi từ bên ngoài.

Để tranh thủ và phát huy những mặt thuận lợi, khắc phục được những khó khăn trong sự nghiệp đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định động lực chủ yếu để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc đó là phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới.

Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.

Như vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là giữ vững ổn định chính trị - xã hội, mà điều quan trọng và có ý nghĩa cơ bản, chiến lược lâu dài đó là đại đoàn kết toàn dân tộc chính là nhằm khai thác, phát huy mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của cả dân tộc, phát huy và nhân lên các thế mạnh tạo thành sức mạnh tổng hợp quốc gia to lớn vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành mục tiêu tổng quát mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định trong đó có thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Để phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời gian tới, cần thực hiện một số các giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chính sách, Nhà nước quản lý thông qua hệ thống pháp luật, nhằm tạo cơ sở cho sự thống nhất các lợi ích, thống nhất về ý chí và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.

 

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng tham gia điệu xoè với đồng bào các dân tộc huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu tại Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc_Ảnh: TTXVN (Ảnh minh họa)

Do vậy, Đảng và Nhà nước không ngừng hoàn thiện, thể chế hóa, cụ thể hóa hệ thống đường lối, chính sách, pháp luật để bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Nhân dân thực sự làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân và phải được thực thi trong thực tiễn. Khắc phục triệt để tình trạng có nơi, có lúc thực hiện không đúng, thậm chí trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội phải khuyến khích, động viên, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đồng thời, có những chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, nhất là chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Thực sự tôn trọng và tạo điều kiện, cơ hội để Nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những vấn đề quan trọng của đất nước; phổ biến sâu rộng và thực hiện tốt hơn nữa Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của Nhân dân; tin Dân và tôn trọng Dân.

Hai là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ở nước ta, đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng dân chủ, bảo đảm và phát huy tốt quyền làm chủ của Nhân dân đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội. Dân chủ là điều kiện, tiền đề của đại đoàn kết. Do đó, để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát huy dân chủ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định, trong nhiệm kỳ này, để xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần phải thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội.

Ba là, tôn trọng Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân, học hỏi Nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân; phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh, trật tự, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Trong mọi công việc, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dân là gốc”, “phải gần dân, giúp dân, học dân”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Các cơ quan nội chính phải luôn đề cao tinh thần phục vụ Nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết yêu cầu công việc của Dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, biết lắng nghe ý kiến của Nhân dân, dựa vào Nhân dân. Phải kiên quyết loại bỏ thái độ bàng quan, vô cảm trước những bức xúc của Nhân dân; kiên quyết loại bỏ mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền lực để xâm phạm lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh.

Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Cần có cơ chế, điều kiện, công cụ để người dân tham gia rộng rãi vào công cuộc phòng, chống tham nhũng. Người dân khi thấy hiện tượng tiêu cực phải biết phản ánh với cơ quan, tổ chức và bằng cách nào, với hình thức nào. Đồng thời, cần có quy định khen thưởng, nêu gương và bảo vệ những người dám tố cáo hành vi tham nhũng.

Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trước hết, việc xây dựng và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn giữ được định hướng chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng là “ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Để phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội XIII xác định: Cần phải chú trọng đặc biệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng là điều kiện tiên quyết để Đảng thực sự xứng đáng là hạt nhân đoàn kết của toàn xã hội.

Vai trò quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đặc biệt quan trọng. Đảng ta chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4. Do đó, cần thường xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.

Đối với Mặt trận Tổ quốc, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, xây dựng đồng thuận xã hội”5.

Năm là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới.

Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ kháng chiến cũ, các vùng chiến lược, vùng tôn giáo. Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của Nhân dân; có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân. Tiếp tục xây dng cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực để cống hiến cho đất nước.

Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng; hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài, cần có chính sách hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; đồng thời, cần có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.

NGUYỄN THỊ THẾ - Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn: doanthanhnien.vn

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Truy cập hôm nay : 88
Truy cập trong 7 ngày :384
Tổng lượt truy cập : 12,867